Linh Mục Tôma Phan Minh Chánh
- Sinh ngày 04. 08. 1937
-
Tại: Chánh Hiệp, Bình Dương
-
Rửa tội ngày 07. 08. 1937 tại Giáo xứ Chánh
Thiện
-
Năm 1953: Tiểu Chủng viện Sài Gòn
-
Năm 1960: Đại Chủng viện Sài Gòn
-
Thụ Phong Linh mục ngày 29. 04. 1967, tại
Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn.
Linh
mục Giáo phận Phú Cường
-
Từ tháng 05. 1967 – tháng 12. 1967: Phó xứ
giáo xứ Búng
-
Năm 1968 – 1970: Chánh xứ giáo xứ
Chơn Thành, quản nhiệm giáo xứ Bến Cát.
-
Năm 1970 – 1972: Chánh xứ giáo xứ Lộc Ninh
-
Năm 1972 – 1980: Chánh xứ giáo xứ Búng
-
Năm 1980 – ngày 18. 10. 2012: Chánh xứ
giáo xứ Lái Thiêu.
Quản hạt Phú Cường.
Phụ trách giáo xứ Phú Long, Tân Thới.
Năm 1985 – 1987: Quản nhiệm giáo xứ
Bình Hoà.
-
Từ ngày 18. 10. 2012 – 14. 12. 2023: Hưu
dưỡng.
-
Qua đời hồi 17:30 ngày 14. 12. 2023, tại Giáo
xứ Chánh Thiện. Hưởng thọ 86 tuổi, 56 năm Linh mục.
-
Mai táng tại đất thánh các linh mục giáo
phận Phú Cường (Bến Sắn)
(cập nhật ngày 14. 12. 2023)
Chữ ký vào Sổ Rửa tội của cha Tôma Chánh ở Búng
Bài viết về cha Tôma Phan Minh Chánh:
CẢM NGHĨ VỀ NGƯỜI CHA
Sau 32 năm, Cha Tôma phục vụ tại giáo xứ, giáo dân
trong giáo xứ có thể nhận xét về Cha như sau:
Cha có nếp sống bình dân giản dị.
Cha vốn xuất thân từ một gia đình nông dân trong Giáo
xứ Chánh Thiện, nên Cha có nếp sống giản dị, bình dân, ăn uống đạm bạc, cách ăn
mặc cũng đơn giản. Khi giảng dạy, Cha dùng những từ dễ hiểu, không văn chương
bay bướm. Khi phát biểu trước đám đông, Cha không dùng ngôn từ diễm lệ mà chỉ
dùng lời ngay ý thật mang đậm cốt cách bình dân để cho người nghe dễ hiểu, dễ
nhớ. Phòng làm việc và nghỉ ngơi của Cha thì bày biện đơn giản. Tài sản trong
phòng thì không có gì quý giá. Phương tiện di chuyển hàng ngày chỉ là chiếc xe
Dream đời cũ.
Cách làm việc của Cha: Lắng nghe – Tìm hiểu – Nhịn nhục.
Bước đầu về nhận giáo xứ, dù gặp nhiều khó khăn, nhưng
Cha bình tĩnh, cầu xin ơn Chúa, lắng nghe từ mọi phía, phân tích sự việc, tìm
hiểu thực hư, tạm chấp nhận những gì có sẵn rồi từ từ điều chỉnh, kêu gọi sự
hợp tác trong giáo xứ. Cách làm việc của Cha là đối thoại chứ không đối kháng.
Đối với những vụ việc quá căng thẳng, Cha sẵn sàng hạ giọng, tự kiềm chế bản
thân, nếu cần phải nhượng bộ, mặc dù tính Cha cũng nóng nảy.
Cách dùng người của Cha.
Cha tôn trọng khả năng của từng người. Cha để những
người cộng tác với Cha thoải mái phát triển tài năng của mình. Ý của Cha là:”
Biết việc, cứ làm”. Điều gì Cha không có ý kiến là tốt, cứ tiếp tục. Cha hiếm
khi khen cá nhân mà chỉ khen tập thể bởi vì theo Cha thì: "Mình có tài, có khả
năng thì tham gia phục vụ giáo xứ, làm sáng danh Chúa, có gì mà phải khen; mà
khen như thế nào thì vừa”. Vả lại, Cha biết mình không có tài ăn nói, ngôn từ
không diễm lệ nên khen thế nào cho phải. Thôi thì khỏi khen, để Chúa khen.
Cách dùng tiền của Cha.
Cha không tiếc tiền trong việc sửa chữa nhà thờ, làm
đẹp khuôn viên nhà thờ. Có tiền ít thì hư chỗ nào, sửa chỗ đó. Có tiền kha khá
thì sửa chữa quy mô, dùng vật liệu cao cấp. Trong việc cử hành phụng vụ, Cha
sẵn sàng mua sắm dụng cụ âm thanh loại tốt để lời Cha giảng dạy và tiếng Ca
đoàn hát để mọi người tham dự thánh lễ trong và ngoài nhà thờ nghe được rõ
ràng, thêm phần sốt sắng. Cha tiết kiệm tổ chức ăn uống tại nhà xứ nhưng hào
phóng đối với những gia đình có thân nhân mắc bệnh nặng mà thiếu tiền thuốc
thang. Mỗi thứ sáu đầu tháng, khi trao Minh Thánh Chúa cho người bệnh, người
già. Cha cũng tranh thủ thăm hỏi, và làm việc từ thiện, bác ái. Đối với những
việc quyên góp của Giáo phận hoặc các giáo xứ vùng xa, Cha rất sẵn sàng đáp
ứng. Trong việc giao tế, Cha biết dùng của cải thế gian để mưu cầu ích lợi cho
Giáo Hội dù phải tốn kém.
Cách đối xử với các Cha phó và các Thầy giúp xứ.
Cha đối xử rất tốt với các Cha phó, luôn tạo điều kiện
thuận lợi tối đa để các Cha phó làm tốt công tác của mình. Đối với các Thầy
giúp xứ, Cha tận tình giúp đỡ, chỉ bảo những kinh nghiệm mà Cha đã trải qua và
đối xử rộng rãi với các Thầy, nên qua thời gian giúp xứ, các Thầy an vui tiến
lên Bàn Thánh.
Thú tiêu khiển của Cha.
Cha thích chăm sóc cây kiểng và nuôi các loại thú từ
Bò, dê, chó, mèo, gà, vịt đến các loại thú quý như vượn, gà rừng, công, chích
chòe…Lúc nào nhà xứ cũng có tiếng chim kêu, vượn hú, chó sủa.
Ơn gọi trong giáo xứ.
Trong 32 năm làm Cha sở giáo xứ Lái Thiêu, Cha đã có
hai người con mà Cha cho đi tu làm Linh mục, là Linh mục Gioan Baotixita Nguyễn
Minh Hùng, hiện là Cha sở Bến Sắn và Cha Vinh sơn Nguyễn Minh Tuấn, hiện làm
Cha phó Búng. Bên cạnh đó, về phía nữ, Cha cũng có ba người con mà Cha cho đi
tu là Maria Nguyễn Đan Hoàng Trang, Maria Nguyễn Lương Hoàng Vân và Maria
Nguyễn Thị Huyền Trân, thuộc Dòng nữ Thừa Sai Đức Tin, hiện còn đang tu học tại
Manila – Phi Luật Tân.
Lời kết: Trên
đây là một số cảm nhận về Cha Tôma qua 32 năm tại Giáo xứ. Hi vọng những ghi
nhận trên đây giúp mọi người hiểu về Cha và có cái gì lưu lại về một Cha sở lâu
năm nhất của Giáo xứ.
Giacôbê Nguyễn Văn Thế.
PHỎNG VẤN CHA SỞ TÔMA NHÂN KỶ NIỆM 45 NĂM LINH MỤC
(29/4/1967 – 29/4/2012)
1. Người
phỏng vấn: Thưa Cha, nhân dịp
Giáo xứ Lái Thiêu cho ra mắt quyển kỷ yếu của Giáo xứ nhằm kỷ niệm 50 năm thành
lập Giáo phận Phú Cường, 60 năm trên đường dâng mình cho Chúa, 45 năm Thụ phong
Linh Mục, 32 năm làm Cha sở Giáo xứ Lái Thiêu. Xin Cha cho biết cảm xúc sâu sắc
nhất của Cha về những sự kiện lớn kể trên?
Cha Tôma: Tôi
quan niệm cuộc đời linh mục giống như một cuộc hành trình có những chặng
dừng:08 tháng làm phó Búng, 2 năm làm sở Chơn Thành, 2 năm làm sở Lộc Ninh, 8
năm làm sở Búng và chặng cuối cùng về Lái Thiêu. Chúa đã an bài cho tôi về Quê
ngoại để phục vụ trong thời gian thật dài, 32 năm. Thật vậy, mẹ tôi sinh ra tại
xã Tân Thới năm 1916. Được rửa tội tại Lái Thiêu do cha Henri Hay và được an
nghỉ tại đất thánh Lái Thiêu. Thánh ý Chúa thật nhiệm mầu không ai kể thấu.
2. Người
phỏng vấn: Sau khi Cha thụ
phong linh mục, Đức Cha Giuse Phạm Văn Thiên, Giám Mục Giáo phận Phú Cường, đã
có bài sai bổ nhiệm cha làm cha sở Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Xin Cha cho
biết công tác mục vụ của Cha lúc đó, cũng như những công trình mà Cha đã thực
hiện lúc đó như: xây cất, điều hành trường học của thời điểm đó.?
Cha Tôma: Tôi
đi nhận xứ Chơn Thành thuộc tỉnh Bình Phước vào giữa cuộc chiến ác liệt của Tết
Mậu Thân. Trong 2 năm 1970 – 1972, tôi đã nỗ lục xây dựng hai trường học:
Trường Trung học phụng sự và trường Tiểu học, đã mời được hai Dì Thủ Thiêm lên
dạy đạo hạnh và chữ nghĩa cho con em trong xứ. Một câu chuyện cảm động được ghi
lại đây để tôn vinh tình nghĩa thầy trò. Vào năm 2008, tôi gặp một tín hữu ở
Chơn Thành đang định cư tại Mỹ, anh nài nỉ tôi tìm giùm Dì Chín trước dạy ở
Chơn Thành. Tôi hứa và tôi đã nối kết lại tình thầy trò đã xa cách nhau gần 40
năm. Thế là anh học trò quyết định về Việt Nam , đã yểm trợ tiền xây nhà và hứa
phụng dưỡng Dì cho đến cuối đời. Tình nghĩa thầy trò thật cao cả và tuyệt vời
như thế.
3. Người
phỏng vấn: Nghe nói trong
thời làm Cha sở Lộc Ninh, nhân một chuyến đi từ Lộc Ninh về Bình Dương, chiếc
xe đò chở Cha cán “trúng mìn”, xe hư hại, hành khách có người bị thương nhưng
Cha chẳng sao cả. Xin Cha cho biết lúc đó Cha có kịp “ ăn năn tội cách trọn”
hoặc kêu lên” Giêsu, Maria, Giuse” như ông bà chúng ta thường dạy con cháu mỗi
khi gặp gian nan khốn khó hay không?. Sau giây phút đó Cha cảm thấy thế nào?
Cha Tôma: Tháng
4 năm 1972, lúc chiều tối, Đức Cha Giuse tới Chơn Thành ở lại một đêm. Lúc
trăng lên, khi trời dịu mát, Ngài bảo cần tôi đi Lộc Ninh để dàn xếp công việc
của Giáo xứ. Tôi trả lời là Đức Cha sai đi đâu, lúc nào thì tôi cũng sẵn sàng
vâng lời. Đức Cha bảo: “ Chúa sẽ chúc lành cho Cha”. Vào thời điểm
đó, đường đi từ Chơn Thành đến Lộc Ninh rất xấu, đầy cát bụi, đầy nguy hiểm vì
mìn dọc hai bên đường. Vào sáng sớm của tháng 5/1971, tôi ngồi ghế số 2 của
hãng xe đò Kim Long đi về Tòa Giám Mục. Rời bến khoảng 7 km thì xe cán phải
mìn. Viết lại tại họa này tôi cảm thấy còn hoảng loạn như lúc đó. Nghe tiếng nổ
đùng chát chúa, bụi cát văng rát cả mặt, một lỗ to xé nát nóc cabin, sức tàn
phá của quả mìn thoát ra từ lỗ này, mọi cánh cửa đều bung ra, xe dừng lại tức
khắc, mọi người đều chạy dồn về phía sau xe. Kiểm tra lại thì có anh tài xế và
một người khác bị thương.
Thấy mình còn nguyên vẹn cả xác hồn nên tức khắc dâng
lời cảm ta Hồng ân Thiên Chúa đã che chở mình được tai qua nạn khỏi. Đây là lần
thứ hai Thiên Chúa đã giữ gìn tôi khỏi cái chết trước mắt, còn lần thứ nhất là
vào tháng 07/1953, một người đàn bà xa lạ rất can đảm đã lên tiếng cứu tôi khỏi
phải bị bắn chết ở Suối Giữa. Hồng ân Thiên Chúa thật bao la. Cả hai lần đều
không có giờ hoặc không nhớ đên ăn năn tội vì sợ hải đã chiếm đoạt cả con người
mình. Đây là một kinh nghiệm bản thân rất quí giá, nên chúng ta cần phải ăn năn
tội trước khi ngủ và lúc mở mắt thức dậy.
4. Người
phỏng vấn: Cha làm cha sở tại
Giáo xứ Búng bao nhiêu năm, những kỷ niệm nào Cha cho là sâu sắc nhất khi Cha
phục vụ tại đó?
Cha Tôma: Đầu
tháng 02/1972 tôi nhận bài sai về Giáo xứ Búng. Đây là lần thứ hai tôi trở lại
với danh nghĩa là cha sở. 8 năm phục vụ tại đây, tôi nhận thấy anh chị em Giáo
xứ Búng rất hiền hâu và ôn hòa, dễ mến, dễ thương, chưa hề nghe ai nói điều gì
không đẹp về Giáo xứ Búng. Kỷ niệm sâu sắc là khi được bài sai về Lái Thiêu thì
có một số người định làm đơn ra xã Hưng Định xin giữ tôi lại. Ông Marcô Nguyễn
Văn Hoàn, thân phụ của Cha Titô Nhường, báo cho tôi biết. Tôi xin ông Cố ngăn
chặn và giải thích cho họ hiểu không nên làm cản trở việc điều hành của Đức
Cha. Thế là mọi việc đã xảy ra tốt đẹp. Hoan nghênh tinh thần vâng phục của
giáo dân Búng.
5. Người phỏng vấn: Năm 1980 Đức
Cha Giuse bổ nhiệm Cha làm cha sở Giáo xứ Lái Thiêu. Tính đến nay là 32 năm.
Một thời gian khá dài trong cuộc đời của một cha sở tại một nhiệm sở. Vậy, chắc
chắn Cha có nhiều điều để nói. Xin phép Cha cho biết cảm tưởng của Cha về Giáo
xứ Lái Thiêu như thế nào lúc mới bắt đầu về làm cha sở và cảm tưởng hiện nay
sau 32 năm (sống và phục vụ tại đây)?.
Cha Tôma: Theo
thường tình, mỗi lần đến giáo xứ mới chắc chắn cha nào cũng có nhiều chuyện lo
âu, suy nghĩ, nhất là lúc đó tôi rất am hiểu về tình hình của Giáo xứ Lái
Thiêu. Điều an ủi và nâng đỡ tôi chính là lời Đức Cha Giuse đã nói khi tôi nhận
đi Lộc Ninh ” Chúa chúc lành cho Cha vì vâng lời”. Tôi cảm nghiệm
được được ơn chúc lành Đức Cha từ đó đến nay. Thêm vào đó, nhờ sự cộng tác tích
cực của các nữ tu dòng Thánh Phaolô , Hội đồng giáo xứ, các Cựu Chủng sinh và
tu sĩ, các Hội đoàn, các gia đình trong mọi sinh hoạt mục vụ của giáo xứ nên
các Bí tích được cử hành trong bầu khí trang nghiêm, sốt sắng. Điều được Đức
Cha Phêrô xác nhận trong lễ Thêm Sức ngày 27/05/2012, Ngài còn khen các
em Rước lễ trọng thể siêng năng bền chí học hỏi Lời Chúa và đã hứa quyết tâm nên
thánh bằng con đương phục vụ để trở nên những chứng nhân trung thực của tình
yêu Thiên Chúa giữa trần gian. Suốt 32 năm tôi được an vui và hạnh phúc sống
giữa anh chị em.
6. Người
phỏng vấn: Cha có ấn tượng gì
về Giáo xứ Lái Thiêu nhất và sau này trong tương lai gần khi Cha nghỉ hưu, Cha
sẽ căn dặn cha sở tương lai của Giáo xứ Lái Thiêu điều gì để “ Cha sở mới” đỡ
mất công và dò dẫm, mò mẫm trong bước đầu phục vụ tại Giáo xứ Lái Thiêu?
Cha Tôma: Nghe
địa danh Lái Thiêu mọi người đều cảm mến vì bề dày lịch sử của nó. Tôi thơm lây
vì được phục vụ giáo xứ Lái Thiêu. Tôi vui mừng nhận thấy anh chị em Lái Thiêu
đều ý thức về truyền thống ông bà đã để lại, điều này thể hiện rõ qua đời sống
đức tin luôn canh tân đổi mới, luôn sáng chói, luôn hiệp nhất với nhau trong
tình huynh đệ. Mọi người dù ở chân trời góc bể nào cũng luôn hướng về quê nhà
Lái Thiêu. Bằng chứng là các cơ sở mà giáo xứ đang có luôn có phần đóng góp
đáng kể của các người con ở hải ngoại. Ước gì truyền thống tốt đẹp luôn được
giữ gìn qua các thế hệ con cháu, để Lái Thiêu luôn xứng đáng giữ đại vị hàng
đầu trong Giáo Phận.
Nếu phải nhắn nhủ với cha sở tương lai, tôi xin mượn
lời Đức Cha Phêrô thường nói với anh em Linh mục:” Một mình Giám Mục không làm
được gì”, thì cũng vậy, một mình cha sở cũng không làm được gì nên phải tin
tưởng vào tinh thần cộng tác và lòng nhiệt thành của anh chi em giáo dân. Thêm
vào đó, cha sở phải biết tôn trọng truyền thống của địa phương và tôn trong mọi
thành viên từ người già cho đến trẻ em.
Nguồn: Kỷ
yếu Giáo xứ Lái Thiêu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét