ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012

Linh mục Phanxicô G.B Trần Đức Nhân


Linh mục Phanxicô Trần Đức Nhân
-         Sinh năm: 1849
-         Tại: Đất Đỏ, Bà Rịa
-         Thụ phong linh mục: 1879
-         Linh mục Giáo phận Tây Đàng Trong
-         Từ tháng 06. 1886 – 10. 1886: quyền Chánh sở Búng.
-         Năm 1890 - 1928: Chánh sở Tân Thành (Mặc Bắc)
-         Năm 1928 – 1935: Hưu dưỡng tại họ đạo Tân Thành
-         Qua Đời:1935
-         Mai táng tại Đất thánh họ đạo Tân Thành

Bài viết về cha Phanxicô:

HẠNH TÍCH CHA GIÀ PHANXICÔ NHÂN

Ông Phêrô Trần Văn Ái và bà Madalena Nguyễn Thị Thủ ở tại họ Đất-đỏ, hai ông bà sanh đặng bốn người con, một trai ba gái, con thứ tư tức là cha Phanxicô Trần đức Nhân.

Bốn chị em nầy mồ côi cha mẹ từ thuở bé, đến năm 1863 đời vua Tự-đức đang bắt đạo dữ dằn, nên bốn chị em chạy tản lạc; lưc dó cha Phanxicô mới nên 14 tuổi chạy theo cha, lên ở nhà mồ côi Saigon, ở đó học hành 2 năm, đạo cha Tứ đem Phanxicô vào trường Latinh.

Còn lại một chị thứ ba và em gái thứ năm ở lại Đất-đỏ, nhờ một hai nhà gnoaij thương xót giấu giếm dưỡng nuôi, mới sống được đến ngày nay; em thứ năm Trần Thị Nguyệt tức là thân mẫu của cha Gioakim Lê tinh Thông, đang coin sóc họ Rach-lọp, cha cũng đặng phước là bà mẹ hãy còn sống.

Phanxicô sanh ra năm 1849 tại họ Đất-đỏ, sau vua Tự-đức tức vị 2 năm. Lúc còn còn nhỏ nết na chơn chất thật thà, ít hay chuyện vãn và chơi bời vô ích như các trẻ khác; ham một việc học hành lại siêng năng làm việc trong nhà giúp đỡ cha mẹ. Người cũng học chữ nho rất làu thông, bây giờ còn thấy một đống sách chữ nho rất cũ mèm. – Song ý nhiệm Đức Chúa Trời muốn để cho Phanxicô mồ côi cha mẹ lúc còn thơ ấu lại trúng nhằn thì bắt đạo, phải trốn ẩn xiêu lạc đến đất nước người, mà nhờ dịp ấy, Phanxicô được Chúa gọi vào hàng đạo đức, thật là rủi mà may là vậy…

Trong vòng 56 năm người làm việc tông đồ Chúa một cách chín chắn trọn hảo. – “Vila vestra est abscondita cum Christo in Deo”. Cả đời người tóm về câu đó, người ở khiêm nhượng khó khăn cùng ưa tịch mạc một mình, không cầu ai khen, không sợ ai chê, không trông ai biết tời mình, một sống âm thầm khuất tịch cùng Đức Chúa Trời. Mà sự sống thanh vắng kín nhiệm với Chúa, giúp limh tấn tới trong đàng trọn lành và lập công nghiệp kể chẳng xiết. In silentio et quiete proficit anima devota (imit, lib. I cap. 20)

Vì vậy nói được, về cha già Nhân rằng: Ngày người sống ở đời là ngày dẫy đầy công nghiệp. Et dies pleni invenientur in eis.

Người ở ngay chính thẳng phép, chẳng thiên tư, kẻ không biết thì đồn rằng gắt gỏng, song biết người cho thiệt thì phải mến thương, ai ngay thật tin cậy thì người yêu dấu và lo giúp đỡ tận tình. Như có lần kia một cha tới giảng cấm phòng họ, đến thăm người, thì người cũng tiếp rước chuyện vãn vui vẻ, cha đó thấy người vui thì giơ tay vuốt râu, người cũng vui cười, lại bữa kia người ngồi xe kéo đi dạo thì cũng biểu cha đó lên ngời xe với mình…

Song áo nhuộm màu nào thì thấm màu ấy, nỡi tánh người người luật phép hẵn hòi, nên cách ở với đoàn chiên e có kẻ lấy làm thẳng phép. Nhưng vậy cũng có thứ trái, bề ngoài càng nhám nhúa chông gai, thì bề trong càng ngon ngọt mỹ vì. – Người hay làm việc yêu người, giúp đỡ kẻ thốn thiếu, kẻ đói rách cho ăn mặc, lúc đồng tiền khi thúng lúa, nên ai cũng đem lòng cảm mến công đức người.

Về việc thiêng liêng thì người giữ hẳn hòi từ sớm mai tới tối. Mỗi ngày ba giờ rưỡi thức dậy lo nguyện gẫm, năm giờ vô nhà thờ dọn mình làm lễ Misa. Cả ngày phân giờ mà làm việc bổn phận quờn linh mục, rảnh việc thì chăm lo học hành, xem sách những thông minh trí huệ, đến đỗi khi già, con mắt không đặng tốt mà hằng ngày người cũng chẳng bỏ xem sách vỡ khi nào, có một hai năm sau hết thì người mới thôi, somg mỗi ngày cũng biểu kẻ giúp đọc cho người nghe.

Vậy cha già Phanxicô ở Tân-thành chẳng khác chi như thấy tu ẩn ánh rừng xanh, như chim nọ an thân trong ổ, ngày qua tháng lại tính đặng 41 năm trời, càng ngày càng thương chốn thấp hèn, một lâu một thêm mến nơi sầm uất, lòng mong tưởng ngụ đó cho đến mãn đời. In didulo meo moriar. (Job.29, 18) cho nên khi bị té gãy đùi nằm nhà thường, thì người hằng trông mau mạnh mà trở về họ, đến đỗi bỡi lòng nhớ thương con chiên quá, bỏ ăn bỏ uống ai nấy đoán phải chết, nên cha cháu xin cha sở Chợ-đũi xức dầu và đem Viaticô, vì sợ e phải chết dọc đàng khi đem về. Chẳng ngờ khi về tới nơi ít lâu sau lần lần khỏe lại, rồi mạnh lại gần hai năm rưỡi, đó lòng thương mến con chiên là thuốc linh nghiệm cho người mạnh lại.

Vậy đầu năm nay là năm sau hết cho đời người, đến kỳ về chầu Chúa, thì mới phát đau không đầy một tuần mà phải chết. Trong lúc bịnh hoạn mang tật cho đến lúc đau nặng, thì không ai nghe người phàn nàn năm nỉ điều gì, người không than không nói với ai, dầu đau đớn lắm cũng làm thinh mà chịu, vì sợ làm cực lòng cho người ta. Ai hỏi thì người cứ nói nhẹ, khá, cho nên khó biết bệnh tình năng nhẹ thể nào, chính tôi ở với ngài mà cũng không biết được, tưởng cũng còn sống lâu.

Song vì niên cao lực giảm, cũng có lẽ mà chết gấp được, nên nhắc người lo dọn mình chịu các phép sau hết cho sẵn vậy thôi; mà khi chịu phép xức dầu rồi, qua ngày sau xem ra bớt không dấu gì bịnh nặng, vì bề ngoài không thấy người tỏ dấu cho đau đớn cho lắm, cho đến khi biết được là bịnh nặng, thì việc đã rồi, vì từ trưa thứ sáu phát mê cho đến 10 giờ rưỡi tối thì linh hồn lìa xác mà về cùng Chúa, cách êm ái dịu dàng, không ngặt mình, không hấp hối chút nào; nhằm đếm thứ sáu rạng mặt thứ bảy. Đức Mẹ đến rước tôi tớ hết lòng thành kính Đức Mẹ trọn đời, mà đem về thiên đàng hưởng phước muôn đời cùng Đức Mẹ.

Qua ngày sau, nhằm Chúa nhựt 27 Février, lễ rồi thì đem linh cửu người vào nhà thờ cho giáo hữu cầu hồn, đoạn ngày thứ hai 28 Février, đúng 5 giờ cha Phaolô Thắng làm lễ hát cho người, lối 7 giờ cha cháu làm lễ Qui lăng trọng thể, có thấy năm thầy sáu, đoạn cha sở Mặc-bắc làm chủ sự đưa xác ra đất thánh.

Người năm giữa con cái mình đã tận tình yêu mến, trước cây thành giá mà chờ ngày sống lại hiển vang đời đời.

Ấy thật là sống gởi thân, chết gởi xác, như lời người đã nói lúc còn sống: Ecce Morior in hâc humo (Deut. 4, 22).

Đã có kẻ dưng lời thương tiếc cũng kẻ lượt qua mọi việc người làm ở Địa phận này trong vòng 41 năm tại họ Tân-thành, tưởng bấy nhiêu lời ấy cũng đủ an ủi lòng Hội thánh ít nhiều, song có kẻ còn ngùi ngùi thảm thiết, chẳng biết nói sau cho phỉ lòng thương nhớ cùng nguôi ngoai cơn sầu dường ấy, nên tôi xin nhắc sơ tánh hạnh người cho các kẻ thương nhớ đặng giảm cơn phiền muộn.

Hễ nhơn đức đi qua thì mùi thơm phưởng phất, đều cho ai nấy đều đem lòng thương tiếc, mà nhơn đức càng ẩn tàng khi sống thì khi chết càng chói lòa rực rỡ, vì tuy xác chết rồi mà mặt người vẫn còn tươi tốt vui vẻ như một người nằm ngủ vậy thôi.

Vậy đôi lời đơn sơ giã từ cha yêu dấu, dưng mấy lời nhắc tánh hạnh cha, cho phỉ tình thương nhớ. Nguyện cho cha từ tại thanh nhàn trên chốn thiên đàng.

Ớ cha! Thế gian nầy là chỗ qua đàng, là nơi đất khách, kẻ trước người sau, nay mai hai ta lại hiệp. Xin cha cầu cho kẻ phụ giúp cha mấy năm trời và các con chiên mồ côi yêu dấu của cha đang chiu chít khóc than, đặng nối gót theo cha mà đi đàng công chánh, cùng đặng sanh thuận tử an, hấu hưởng phước cùng cha muôn đời siêu sái. Amen,

Hỡi ôi! Người đời thấp thoáng bóng đèn hoa, mới thấy đó phút liền mất đó!!...Thương tiếc thay một đấng tài đức bội nhiều, mà bỗng liền khuất mặt.

Bấy lời thương tiếc tiếc thương,

Đưa cha về chốn nghỉ ngơi đời đời. !!

Paul.

Nguồn: báo Nam Kỳ địa phận, số 1344, ngày 28 tháng 3 năm 1935.


 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét